LOA
Định nghĩa :
Loa là 1 thiết bị điện thanh,dùng để biến đổi năng lượng điện thành năng giao động cơ học
Nhờ vào cấu tạo đặc biệt của loa có màng bức xạ giao động theo dạng sóng của âm thanh làm cho các phần tử khí xung quanh màng bức xạ cũng giao động tín hiệu đầu vào và phát ra của âm thanh.
a. cấu tạo
Trong đó: a là nam châm mạng hình trụ tròn rỗng, b là cuộn dây động quấn trên một khoanh giấy, nằm trong khe từ hình nhẫn, c là trụ sắt non, tạo với nam châm một khe từ trường hình nhẫn khá mạnh, d là màng giấy (nón loa) gắn liền với cuộn dây và mạng trong, đ là sườn loa, e là mạng nhện, g là nếp nhăn của nón loa.
b. nguyên lý hoạt động
Loa điện động hoạt động dựa trên nguyên tắc một cuộn dây đặt trong một từ trường mạnh của nam châm. Khi có dòng điện âm tần chạy qua, cuộn dây sẽ dao động. Do cuộn dây được nối với màng loa nên các dao động này được truyền ra không khí, tác động vào người nghe.
c. độ nhạy của loa
Độ nhậy( Sensitivity): Là áp lực âm thanh của loa đo được tại điểm cách mặt loa 1 m với công suất đưa vào 1 W. Chỉ tiêu này đặc trưng cho chất lượng của Ê măng và độ phóng xa của loa.
d. phân loại và sử dụng
Căn cứ vào dải tần làm việc của loa phân ra làm 3 loại:
loa trép loa HF : dải tần 3Khz-16Khz
loa trung loa MF : dải tần 300Hz – 5Khz
loa Bass loa LF : dải tần 16Hz-125Hz
nếu như 1 loa ta đưa tín hiệu tât cả dải tần số từ 16-20Khz được gọi là loa Full (loa toàn dải ) thường sử dụng trong tivi gia đình.
trong sân khấu loa full là 1 hệ thống thùng loa bao gồm 2 loa trở lên 1 loa HF và 1 loa LF .
Căn cứ vào cấu tạo loa ta có thể chia ra các loại loa sau:
1. Loa điện động: Cuộn dây động của loa nằm trong từ trường của nam châm có cực bắc (N) ở trong lòng cuộn dây, cực nam (S) ở vòng chung quanh cuộn dây. Khi dòng điện âm tần chạy qua cuộn dây động của loa thì nó sinh ra một từ trường biến đổi. Cuộn dây động nằm trong từ trường biến đổi thì sẽ di chuyển dọc theo khe từ, theo quy luật bàn tay trái.
Nếu từ trường của nam châm toả ra chung quanh và dòng điện chạy theo chiều mũi tên, thì theo quy luật bàn tay trái cuộn dây động của loa sẽ bị kéo xuống. Khi dòng điện đổi chiều, nghĩa là dòng điện chạy theo chiều mũi tên đứt đoạn thì theo quy luật bàn tay trái, cuộn dây động của loa sẽ bị kéo lên . Do đó, khi dòng điện âm tần chạy qua cuộn dây động thì cuộn dây sẽ rung theo nhịp điệu đó. Rung động này truyền sang màng loa, làm cho màng loa rung động, nên tai nghe được âm thanh. Nón loa càng rộng thì âm thanh càng trầm.
Loa điện động có trở kháng thấp, thường từ 3W đến 8W, cao lắm là 40. Cho nên khi dùng trong máy thu thanh hay mạng lưới truyền thanh, thường phải kèm theo một biến áp giảm áp, gọi là biến áp loa. Một số loa điện không dùng nam châm vĩnh cửu, mà dùng nam châm điện. Trong đó nam châm vĩnh cửu được thay bằng cuộn dây có dòng diện một chiều chạy qua. Cuộn dây này tạo nên từ trường trong khe từ. Loa điện động này chỉ dùng trong một số máy thu thanh.
Loa điện động có chất lượng âm thanh cao, đáp tuyến tần số rộng, công suất có thể nhỏ tới 1/20 W và lớn tới vài chục W. Loa điện động được dùng rộng rãi trong các máy thu thanh, ghi âm, thu hình, trong mạng lưới truyền thanh, trang âm …
Loa điện động công suất nhỏ dùng trong truyền thanh có công suất quy định là 0,25VA và 0,15VA. Các loa truyền thanh của Liên Xô bao giờ cũng có núm điều chỉnh âm lượng.
2. Loa điện từ:
Loa điện từ còn gọi là loa kim
Trong đó: a là nam châm, b là cuộn dây, c là lưỡi gà, d là màng loa bằng giấy, đ là sườn loa, 3 là hai miếng sắt chữ U, f là các miếng sắt non, g là cần câu, một đầu gắn vào lưỡi gà, một đầu gắn vào chóp nón loa.
Nam châm có thể là hình trụ hay hình móng ngựa. Bộ phận động cơ củ loa có thể lắp ở phía sau nón loa như trong hình trên, có thể lắp trên giá gỗ ở phía nón loa.
Khi có dòng điện âm tần chạy qua cuộn dây thì cuộn dây và lưỡi gà nằm trong một từ trường không đổi của nam châm.
Khi dòng diện âm tần chạy qua cuộn dây loa thì tạo nên từ trường biến đổi. Lưỡi gà nằm trong từ trường này, nên bị rung động theo tần số của dòng điện chạy qua cuộn dây. Hệ thống cần câu này truyền rung động này tới màng loa. Mang loa rung động và phát ra âm thanh.
Loa điện từ có cấu tạo đơn giản, nhng chất lượng kém tiếng trầm bổng đều bị cắt và hay bị hỏng vặt do lưỡi gà bị hút về một bên, kêu vè vè …
Các loa điện từ dùng trong truyền thanh có công suất danh định 0,25VA; trở kháng danh định 3600W (đo ở 400Hz) đáp tuyến tần số từ 200 – 2000Hz chênh lệch 20 dB, hệ số méo không đờng thẳng 15% (ở 400Hz).
Hiện nay trên thế giới đã loại bỏ loa này và trên màng lưới truyền thanh ở nớc ta, nó cũng dần dần bị thay thế bằng loa điện động.
3 – Loa sứ áp điện:
Loa sứ áp điện còn gọi là loa gốm áp điện hay loa tinh thể.
Trong đó: a là miếng sứ áp điện, có tráng bạc ở hai mặt, b là miếng đồng tròn mỏng, c là miếng cao su truyền động, d là nón hoa bằng giấy, đ là sườn loa, e là nắp đậy, f là hai dây dẫn điện.
Sứ áp điện có nhiều loại. có tính chất áp điện: Khi một điện áp âm tần vào hai mặt của tấm sứ áp điện thì nó sẽ rung lên theo nhịp điệu của âm tần. Sự rung động đó được truyền qua miếng cao su tới nón loa và loa phát ra âm thanh.
Đặc điểm của loa sứ áp điện là cấu tạo đơn giản, dễ lắp ráp, dễ sửa chữa, dễ quản lý, giá thành hạ, tiêu thụ ít công suất âm tần. Nhưng tiếng loa lại nhiều thanh ít trầm. Về mặt chất lượng thì hơn loa điện từ, nhưng kém loa điện động.
Loa sứ áp điện hiện nay đợc nhiều dùng trên màng lới truyền thanh ở Trung Quốc. Chẳng hạn, loa sứ áp điện kiểu Hồng Mai YY – 200. Có công suất danh định 0,1VA. Điện áp danh định nhỏ hơn 30V – Trở kháng ở 1000Hz: 9000Hz: 9000W. Dải âm tần: 300 – 10.000Hz. Độ méo không đờng thẳng 12%. Thanh áp: 84dB. Đường kính nón loa 200mm.